Cái Duyên Khi ngồi viết
những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài
thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười. Thì ra vợ cháu cũng
thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái
gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn
: „Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“,
làm vợ cháu ngượng chín người. Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô
tán tụng „những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng,
làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng. Có điều lạ là hầu
như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người
Bắc và cư xử thì cứ „tự nhiên như người Hà Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ
thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm „con chim đa đa“ bay qua xứ
khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay
Thanh- Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp). Hay là ông Trời sinh ra người càng ở
vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy
ông Tây bà Đầm là biết ngay. Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam
kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè,
nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra „mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của
các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ „tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này
thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao,
chân dài” như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá thời kỳ
chiến tranh vẫn hơn một gánh rau muống thời kỳ hoà bình đổi mới ! Bố mẹ cháu
sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền
Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền
đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn” như canh chua nấu với...rau muống,
giá sống ăn với...bún riêu, nhậu bia với
ché mà lại chấm với ...xì dầu. Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi
trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền
thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe
duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật !
Duyên hay nợ đây Trời ! Hồi còn bé,
thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ
hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ
có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra
phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu”, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất
tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu
(cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“
vào Nam năm 54. Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn
“dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu
chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm
chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng,
đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa
sân, đọc thơ rang rảng: “Bắc kỳ ăn
cá rô cây, ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ” Một thằng khác sẵn giọng phụ họa : Có cái thằng
nhỏ nó “đao“ làm sao Lỗ đ. nó
dính cái cọng “rau”, Người ta ai mà kỳ như “dzậy” ? Thế là cả bọn
đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên : “Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ !” Cháu tủi thân
lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền ! Về nhà hỏi mẹ
tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ
cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản : - Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia
đình mình phải “ri cư “ vào đây con ạ !
Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ ! Nào đâu đã hết,
chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi.
Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm
đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào : “Bắc kỳ ăn
cá rô cây, ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi ” Trong gia
đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ
khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành
không dám trêu chọc một lời ? Ngày tháng
qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ ”ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây
phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần
biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn
chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào
cũng chửi cháu là ”thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không ”lắm mồm” chứ để chúng mày ăn
hiếp ông hả ? Nghĩ cho cùng, không ”lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ ”lắm
mồm” được việc, ”lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, ”lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng
thì mong, ”tay chơi” nhưng vẫn ”chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà...”lắc lư con
tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều
bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng
nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có
cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có
quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị
Tình. Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ
đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà ”màu mè ba lá hẹ”, chân
thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm,
để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời. Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám
Bắc kỳ ”ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên ”tàu há mồm”
đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại
ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn
Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc
kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng
Chợ Lớn, vì chẳng thèm ”kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: ” Bà đã nàm
thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !” Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ
lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy ”dzô tuyến chuyền
hình” hay cái ”ra dzô” ra thì thấy liền, các ”xướng ngôn dziêng” hầu như ”chăm
phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng ”E Việt
Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe ”em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại ”dziêng
dzáng” hay ”phe đảng” ? Bố cháu trái
lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời,
nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải
thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc,
kéo theo các thày cô ”ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi,
phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như
Petrus Ký hay Gia Long. ”Mình dân Bắc
thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố
cháu phán cứ như đinh đóng cột. Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám
học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu
ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày
hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Còn bên Petrus Ký
thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay
hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ
biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn !
Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em
Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế
mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy
trự Petrus Ký chỉ biết ”ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là
: ”Quê hương tui
Bắc kỳ nhào dzô quá trời Bên bờ sông
bên bờ ao...trồng rau muống !” Hay cũng là
: ”Quê hương tui cái mùng mà kêu
cái màn !....” Thôi thì
cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo
ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc,
quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này
nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc
có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ. Tìm mỏi con mắt mới có một trự ”diễm
phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn
chữ ”gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời,
mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé
! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh ”...cầm roi dạy chồng”
thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng ”cái
thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ
chơi dại! Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài ”Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp
Nam kỳ thì cái ”nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược
lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ ”đem về dinh” –vụ
này nhiều lắm- thì cứ như ”rồng thêm cánh”, như ”diều gặp bão”, như lái ô tô
không cần Navigation... cả đời có người ”nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra
hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ : Chồng Bắc kỳ
+ vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách Chồng Bắc kỳ
+ vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn. Chồng Nhưng đã là ”luật”
thì bao giờ cũng có ”luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với
lại cháu chỉ lợi dụng cái ”tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ
ngu ngơ để các cụ trong lúc ”trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là
cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại
chuyện của cháu. Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo
dục con cái theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh,
có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ,
vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi
lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc
hay Thiên bất dung nhan! cháu
lại phải lòng một ả Cô cháu gái
ông xếp không có cái dạng ”ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong ”xi la ma”,
thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình
chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường. ”Cô đi máy
bay có mệt lắm không ?” ”Dạ !”. ”Ra thăm cô
dượng hả ?” ”Dạ !”. ”Cô lên xe
đi, tôi đèo cô về” ”Dạ
!”... Chèng đéch
ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết
đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có
còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San
José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã
thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi ! Từ đó cháu với
nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của
cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu,
nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây
thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”,
chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà
trình diện bố. Bố vẫn khinh
khỉnh: ”Không dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh
coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”. Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ,
ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ
phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang
phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì
thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ - Em
mời gia đình ăn cơm đi ! - Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ?
Bộ ”ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao ? Nàng ấp
a ấp úng cũng ráng mời : - Dạ
mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em... Chợt bố cháu lên tiếng
: - Thôi
đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay thật ! con bé này vui vẻ, ngoan
ngoãn lắm ! sao con cứ ăn hiếp nó mãi ! Nghe bố cháu nói mà bụng
cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm - Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu
bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền - Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi
đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi ! Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết
đâu, mẹ cháu chợt bảo: - Cháu
xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy ! Nàng ngớ ra cứ như được
nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay : - Cái
”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn
là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái
”dzá”, phải không ? Nàng đỏ mặt, bĩu môi : ”Cái đồ dzô
dziêng, tui đi dzìa à nghen !” Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy
nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất
là...không lười như ông nghĩ. Thừa thắng xông lên, cháu thủ
thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với
bố, bố vẫn ngần ngừ. Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một
quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa
miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu
cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất
nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người
Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của
vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò
Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường”, chỉ
xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương
!” Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh
thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái
Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn
nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ !
Chấm hết! Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra
lệnh sửa soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng.
Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là đi ”hỏi vợ”,
đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho
rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột.
Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em
nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy
!). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. Đồ nhắm
lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng
chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy
con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai
rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa
cười vừa nói : - Chèng
đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ
cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua
mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị,
hôm nay có ớt nè qua ! Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua
lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu
là con, rể là khách”, nhưng Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La
Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc
mà là cơm Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống.
Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn
xồn Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống
nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại
để nựng. Xỉn quá thì :
”Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền
!”. Bạn bè ói mửa tùm lum thì
: ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !” Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm
! Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh
thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa
dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành
ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu
canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ
thì.. ôi thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết
muốn khùng ! Bố cháu ăn ”bún(g)
mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn
pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp
lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai
thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu
Long vùng - ”Tính
tình gái Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ
họa : - Bố
biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài Gòn nhiều em
sinh viên giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh
viên”, đúng không bố ? Bố cháu quắc mắt :
”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”. Cháu chuồn nhanh kẻo
ông nổi giận. Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ
qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là
”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái
ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”,
nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ
qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội
làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam
kỳ với giòng sông 9 cửa. Nguyễn Hữu Huấn 12/06 main menu |